|
“If one says: ‘Can it be that, in respect of a legal question arising from offences, without having recourse to one decision—the carrying out on his acknowledgement—one may agree upon it by two (kinds of) decisions—the verdict in the presence of and the covering up (as) with grass?’ he should be told, ‘It can be.’ It is like this: ‘This is a case, monks, where while monks were striving … as in Kd.14.13.1–Kd.14.13.3 … Thus do I understand this.’ This is called, monks, a legal question that is settled.
|
|
Này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều gì?—Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và việc phán xử theo tội đã được thừa nhận. Và ở đây, điều gì là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện?—Sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. … (như trên) … Và ở đây, sự hiện diện của nhân sự là gì?—Vị khai báo (tội) và vị chứng minh vị ấy khai báo (tội), cả hai đều hiện diện; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của nhân sự. Và ở đây, điều gì là ở trong việc phán xử theo tội đã được thừa nhận?—Điều nào là sự thực hiện, sự hành động, sự đạt đến, sự thỏa thuận, sự chấp nhận, sự không phản đối thuộc về hành sự phán xử theo tội đã được thừa nhận; ở đây điều ấy là ở trong việc phán xử theo tội đã được thừa nhận. Này các tỳ khưu, khi đã được giải quyết như thế, nếu vị ghi nhận (tội) khơi lại sự tranh tụng, vị khơi lại phạm tội pācittiya.
|